>> Vũ khí chống tàng hình của Quân đội Nga
Ngày 23.3, tạp chí hàng không Mỹ Aviation Week đăng bài phân tích của các chuyên gia nổi tiếng Carlo Kopp và Bill Sweetman về các kế hoạch của Nga đối phó với các phương tiện tiến công tàng hình. Chiến lược công nghệ cho không quân thời kỳ sau năm 2010 của Nga được vạch ra khá chi tiết vào cuối thập niên 1990 và thể hiện ở sự ra đời của các mẫu chế thử hay sản xuất ban đầu các máy bay và vũ khí phòng không. Khác với nhiều nước vốn đi theo những chiến lược đặc biệt để xác định các hệ thống vũ khí tương lai (thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cơ sở công nghiệp và cơ cấu lực lượng hiện có), công tác kế hoạch quốc phòng của Nga có cách tiếp cận có hệ thống và có nguyên tắc nhằm thách thức một cách đối xứng sức mạnh của Mỹ và thách thức một cách đối xứng phi đối xứng các điểm yếu của Mỹ. Ý đồ chiến lược là mở rộng quyền tự do hành động chính trị của Nga trong một thế giới hậu chiến tranh lạnh mà Mỹ chiếm ưu thế, khi mà các khoản thu nhập từ xuất khẩu vũ khí được sử dụng để giảm bớt áp lực đối với nguồn lực quốc phòng hạn chế. Các lựa chọn của Nga đã được hướng dẫn bởi kế hoạch phòng không chiến thuật của phương Tây vốn kiên định tập trung vào tiêm kích F-35 Joint Strike Fighter (JSF). Sự chậm trễ của chương trình JSF đã cho Nga hơn 20 năm để chuẩn bị cho thời điểm F-35 bắt đầu đi vào hoạt động. Ba loại máy bay chiến đấu chủ lực: T-50, Su-34 và Su-35S của Nga Về máy bay, các nhà hoạch định quốc phòng Nga đã chọn chất lượng hơn là số lượng, với lực lượng tương lai được dựa trên 3 loại máy bay tiêm kích-tiến công của hãng Sukhoi, 2 trong số đó là sự phát triển trực tiếp của Su-27. Các tiêm kích nhẹ hơn là MiG-29/35 được phát triển chỉ để chào bán xuất khẩu. Trong số 3 loại máy bay Sukhoi này, hoàn thiện hơn cả là tiêm kích bom hạng trung Su-34. Lô đầu tiên gồm 6 chiếc trong 32 chiếc của đơn đặt hàng đầu tiên đã tới Trung tâm Huấn luyện sử dụng chiến đấu ở Lipetsk, 10 chiếc nữa sẽ được chuyển giao trong năm nay. Theo hợp đồng công bố ngày 1.3, đến năm 2020, Không quân Nga sẽ nhận vào trang bị 92 chiếc Su-34 nữa. Máy bay ném bom chiến thuật Su-34 Được phát triển từ cuối thập niên 1980, Su-34 sẽ thay thế Su-24 Fencer trong các nhiệm vụ tiến công mặt đất và mặt biển, chế áp/tiêu diệt hệ thống phòng không đối phương và các nhiệm vụ khác, trong khi có tốc độ và sự linh hoạt để tự bảo vệ. Loại thứ hai là tiêm kích giành ưu thế trên không Su-35. Ngày 17.1, mẫu chế thử thứ ba Su-35S ở cấu hình sản xuất loạt đã bắt đầu bay thử. Tại thời điểm đó, theo hãng Sukhoi, 2 mẫu chế thử Su-35 (một chiếc phá hủy khi chạy trên đường băng) đã thực hiện 400 chuyến bay thử, các cuộc thử nghiệm nghiệm thu nhà nước đã bắt đầu vào tháng 8.2011, cùng với chiếc máy bay sản xuất loạt đầu tiên. Tiêm kích đa năng siêu cơ động thế hệ 4++ Su-35S Su-35S là mẫu hiện đại hóa sâu của Su-27 Flanker nguyên bản. Hệ thống động cơ vector lực đẩy thay đổi có hiệu quả theo góc hướng, góc chúc ngóc và góc chòng chành và được liên kết toàn phần với các tấm lái khí động. Điều đó cho phép loại bỏ cánh ngang phía trước (cánh vịt) giống như cánh vịt ở Su-30MKI và các biến thể tương tự, vốn làm hạn chế tốc độ tối đa chỉ ở mức 1,8M, cùng với một dù phanh riêng biệt, làm giảm trọng lượng và tăng lượng nhiên liệu mang theo. Hệ thống điều khiển bay và điều khiển động cơ lien kết tạo ra cho máy bay “khả năng cơ động vô song” và độ an toàn cao khi bảo đảm duy trì khả năng điều khiển máy bay thậm chí trong cả những điều kiện phi đối xứng. Hai động cơ turbine phản lực lưỡng mạch 117S có lực đẩy tăng thêm 16%, trong khi các vật liệu mới và cấu trúc cải tiến giúp duy trì trọng lượng máy bay gần với trọng lượng của biến thể cơ sở. Bề mặt tán xạ hiệu dụng của máy bay giảm đi nhờ sử dụng các công nghệ do công ty ITAE phát triển trong những năm 1990 và hệ thống avionics mới bao gồm một radar trường nhìn rộng kết hợp anten mạng pha thụ động quét điện tử và một khớp cardan. Tất cả những tính năng mới của Su-35 là nhằm giảm tầm bắn hiệu quả của tên lửa phòng không đối phương: bề mặt tán xạ hiệu dụng nhỏ và khả năng gây nhiễu tốt hơn làm việc bám máy bay khó khăn hơn, khả năng cơ động tốt hơn của máy bay làm tác động đến đặc tính động năng của tên lửa, kết hợp với một radar có thể có khả năng theo dõi tình huống tốt và chỉ dẫn thực hiện một biện pháp chống tấn công bằng cách cơ động tránh đạn. Tên lửa không đối không tầm trung tiên tiến AMRAAM của Không quân Mỹ đối phó rất kém với các biện pháp đối phó như thế vì thế đã thúc đẩy hãng MBDA phát triển tên lửa không đối không mới Meteor. Loại thứ ba là tiêm kích thế hệ 5 Т-50. Phân tích các bức ảnh và video bay thử cho thấy loại máy bay thứ ba của Sukhoi là T-50 cho thấy sự khác biệt căn bản của nó. Mẫu chế thử thứ ba của T-50 được trang bị thiết bị trên khoang bảo đảm hoạt động của radar và các sensor khác đã cất cánh vào tháng 11.2011 ngay sau khi chương trình đạt con số 100 chuyến bay thử. Máy bay được phát triển dựa trên thiết kế trước đó với phần bên trong giữa cánh rộng hơn, nơi bố trí các khoang vũ khí bên trong, có hệ thống điều khiển vector lực đẩy 3 chiều và các động cơ đặt xa nhau, Т-50 có các tấm lái ở mép trước giữa cánh. Các tấm lái này có thể di động khác nhau một dải rộng. Các loa phụt động cơ tách xa nhau có trục vector hướng ra bên ngoài và lên trên 30 độ so với phương thẳng đứng, nhờ đó chúng có thể tạo các moment hướng, chòng chành và chúc ngóc. Các cánh đứng đuôi nhỏ là kiểu xoay toàn bộ. Tiêm kích thế hệ 5 PAK FA T-50 Một câu hỏi chưa có giải đáp là cấu hình T-50 hiện hữu đã là cuối cùng chưa. Các loa phụt động cơ tròn hiện nay và độ cong của các vỏ động cơ phía sau thoạt nhìn là không được tối ưu hóa để tàng hình, và động cơ không được che chắn toàn bộ bằng các cửa hút khí. Các chương trình Su-35S và T-50 có liên quan với nhau ở mức độ nào đó khi mà một số đặc tính của Su-35S như các màn hình rộng trong buồng lái và hệ thống điều khiển bay/động cơ tích hợp sẽ đem lại kinh nghiệm cho các nhà thiết kế T-50. Động cơ 117S của Su-35S được sử dụng làm động cơ tạm thời cho T-50 cho đến khi hoàn thành động cơ hoàn toàn mới 117. Xu hướng phi đối xứng trong các chương trình tác chiến đường không Nga bao gồm việc phát triển các công nghệ radar chống tàng hình (CVLO) và các tên lửa phòng không cao tốc, tầm siêu xa, cũng như các hệ thống tên lửa phòng thủ điểm, tầm ngắn thế hệ mới để tiêu diệt vũ khí có điều khiển, đặc biệt là tên lửa chống radar, tên lửa hành trình và bom có điều khiển. Tất cả các hệ thống này có sức cơ động cao, thường có thời gian triển khai chiến đấu/thu hồi 5 phút, nên cho phép chúng thay đổi trận địa bắn ngay trong các chu trình ngắm bắn và đánh chặn đa số các loại vũ khí có điều khiển. Trong lĩnh vực radar CVLO, Nga tập trung vào dải sóng 1 m VHF (dải sóng cực ngắn). Vấn đề là ở chỗ thiết kế tạo dáng tàng hình ở các máy bay tiêm kích phần lớn không có hiệu quả ở dải sóng này bởi vì các chi tiết như các cánh ổn định và các đầu mút cánh máy bay có kích thước gần bằng độ dài bước sóng radar. Các giải pháp hấp thụ radar được phát triển cho băng tần S và cao hơn không có hiệu quả ở dải VHF. Sản phẩm hàng đầu trong các radar này là radar 3 tọa độ 55Zh6М Nebo-М của Viện nghiên cứu kỹ thuật vô tuyến điện Nizhy Novgorod (NNIIRT) thuộc Tập đoàn Phòng không Almaz-Antei. Không quân Nga mới đât đã đặt mua 100 đài radar này để trang bị cho lực lượng phòng không. Nebo-M là một thiết kế “đa băng” độc đáo, bao gồm 3 đài radar, 1 module hợp nhất dữ liệu trung tâm và sở chỉ huy, tất cả đều lắp riêng biệt trên các các xe tải 8 trục 24 tấn cơ động cao. Các radar của S-400 Các radar RLM-М băng VHF, RLM-D băng L và RLM-S băng C/X đều cung cấp dữ liệu bám tới hệ thống hợp nhất dữ liệu của xe chỉ huy, giống như hệ thống CEC (Cooperative Engagement Capability) của Hải quân Mỹ khi sử dụng các kênh truyền dữ liệu số, cao tốc, chùm sóng hẹp ở băng viba. Tất cả các radar đều có anten mạng pha chủ động, thể rắn. RLM-М được sử dụng để phát hiện các mục tiêu tàng hình, RLM-D và RLM-S dùng để bám các mục tiêu đó và dẫn tên lửa. Cự ly phát hiện và bám mục tiêu không được tiết lộ, song dự đoán, tầm hoạt động của RLM-М ít nhất cũng lớn hơn 40% so với radar Nebo-SVU trước đó. Đài radar 1L118E Nebo-SVU băng VHF với anten mạng pha chủ động cũng do NNIIRT phát triển dường như không được sản xuất số lượng lớn. Radar này được lắp trên một bán moóc, “kém cơ động hơn”. Nebo-SVU được cho là sử dụng công nghệ xử lý thích ứng không gian-thời gian STAP (space-time adaptive processing technology) tương tự như ở máy bay báo động sớm E-2D Hawkeye của hãng Northrop Grumman và năm 2002, công trình sư trưởng radar Igor Krylov của NNIIRT nói rằng, “chúng tôi có thể nhìn thấy máy bay tàng hình (F-117A) rõ như bất kỳ máy bay nào khác”. Bên cạnh việc tập trung phát triển radar chống tàng hình, Nga cũng đầu tư cho các thiết kế tên lửa phòng không cơ động tầm xa, có tốc độ cao và thời gian bay ngắn nhằm cả 2 mục đích: ngăn chặn các máy bay trinh sát, tác chiến điện tử hoạt động ngoài tầm hoặc xâm nhập tiếp cận không phận, đồng thời cho phép các hệ thống tên lửa phòng không tiếp cận các mục tiêu tàng hình trước khi chúng có thể thoát khỏi tầm bám. Hệ thống phòng thủ đường không-vũ trụ tích hợp trong tương lai của Nga sẽ được xây dựng xung quanh hệ thống phòng không chiến lược S-400 Triumf (SA-21 Growler), S-500 Triumfator-M (SA-X-NN) và hệ thống phòng thủ tên lửa. Các trung đoàn S-400 hiện nay được triển khai ở Dubrovka, Elektrostal và Vladivostok. S-400 được phát triển trực tiếp từ hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU2 (SA-20B Gargoyle), và vẫn giữ lại radar điều khiển băng Х và các ống phóng tên lửa hình trụ và khung thân tên lửa cơ sở. Hệ thống được trang bị radar số đa chế độ 92N6E Grave Stone và radar điều khiển chiến đấu 91N6E được phát triển dựa trên họ radar 5N64/64N6E/E2 Big Bird. S-400 được trang bị các bệ phóng lắp trên bán moóc 5P85TE2 hoặc các xe bệ phóng 5P90S/SE lắp trên khung gầm BAZ-6909 8x8. Hệ thống tên lửa phòng không chiến lược S-400 Ngoài tên lửa cải tiến 48N6Е3/DM có tầm bắn tăng lên đến 250 km (155 dặm) vốn được sử dụng ở S-300PMU2, Ssắp tới, S-400 sẽ được trang bị tên lửa mới 40N6 tầm bắn 400 km. Belarus sẽ là nước đầu tiên ngoài Nga có S-400. Đồng thời, các đơn vị phòng không lục quân Nga cũng đang tiếp nhận S-300V4, bước phát triển tiếp theo của hệ thống tên lửa phòng không/phòng thủ tên lửa S-300V (SA-12 Giant/Gladiator). S-300V4 sẽ có xe bệ phóng chạy xích cải tiến và các tên lửa mới 9М82М và 9М83М được phát triển cho hệ thống Antei-2500 (SA-X-23) có tầm bắn tương ứng là 200-250 và 120-130 km. Đến nay, Nga chưa tiết lộ họ có thay thế radar 9S32 Grill Pan bằng radar lớn hơn 9S32М Grill Screen trong chương trình S-300V4. Hệ thống tên lửa phòng không/phòng thủ tên lửa Antei-2500 “Tầng trên” của hệ thống phòng thủ đường không-vũ trụ tương lai của Nga sẽ là hệ thống S-500 hiện đang được phát triển. Thông tin về hệ thống này không nhiều, nhưng vào giữa năm 2010 có tin, tên lửa của S-500 sẽ được chế tạo dựa trên tên lửa chống tên lửa 9M82M với tầm bắn tăng lên đến 500-600 km và có khả năng chống tên lửa. S-500 sẽ được trang bị radar bắt mục tiêu và điều khiển chiến đấu 91N6А(М) cải tiến từ radar Big Bird, radar bắt mục tiêu 96L6-TsP, các radar mới là radar dẫn tên lửa đa chế độ 76Т6 và radar phòng thủ tên lửa 77Т6. |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét