Hiển thị các bài đăng có nhãn Tên lửa Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tên lửa Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

>> Huyền thoại họ tên lửa SCUD (Kỳ 1)

Trước khi nổi tiếng thế giới, Scud phải trải qua thời gian dài hoàn thiện. Đã có nhiều mẫu nghiên cứu của họ tên lửa này ít biết đến trong thời gian hơn 30 năm phát triển.

>> Tên lửa đạn đạo tầm gần Scud-B của Việt Nam


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo đầu tiên do Liên Xô sản xuất, R-1 (Mỹ định danh là SS-1A)

Trong lịch sử phát triển tên lửa đạn đạo thế giới, Scud là cái tên không thể bỏ qua. Đây là là loại tên lửa đạn đạo được dùng trong chiến tranh nhiều hơn bất kỳ loại tên lửa nào khác. Đồng thời, Scud cũng là “bệ phóng” chương trình tên lửa của nhiều quốc gia trên thế giới.

Lưu ý, Scud thực ra là cái tên do NATO đặt định danh tên lửa đạn đạo tầm ngắn R-11 và R-17 do Liên Xô sản xuất. Dù vậy, cái tên Scud dường như được dùng rộng rãi hơn nhiều so với cái tên “khai sinh” của loại tên lửa này.

Thế hệ đầu 'im hơi lặng tiếng'

Trong tài liệu phương Tây, Scud là thiết kế bắt nguồn từ tên lửa đạn đạo của người Đức, V-2. Ý kiến này không hẳn sai, vì chương trình tên lửa Liên Xô và Mỹ đều bắt nguồn từ V-2.

Nguồn gốc từ V-2

Sau khi đánh bại phát xít Đức, trong năm 1945, Liên Xô gửi một đội chuyên gia tới thu thập công nghệ tiên tiến của Đức, gồm tên lửa V-2. Khi đó, đây là một loại vũ khí có độ chính xác kém nhưng chính khả năng vươn xa cùng với sức công phá mạnh đã “hút hồn” cả Mỹ và Liên Xô.

Tại Đức, các chuyên gia Liên Xô chỉ thu nhặt được một số chuyên viên kỹ thuật trong chương trình tên lửa V-2. Hầu hết những người cốt cán, như “cha đẻ” V-2 Von Braun được Mỹ "rước" đi từ trước.

Các nhân viên người Đức được vào làm việc tại Viện nghiên cứu tên lửa NII-88 (OKB-1) dưới sự lãnh đạo của Đại tá Sergei Korolev - người sau này đã đặt nền móng quan trọng cho công cuộc chinh phục không gian vũ trụ của Liên Xô.

Với những tài liệu được phục hồi cùng bộ phận rời tên lửa V-2, nhóm nghiên cứu Xô – Đức đã tái tạo các mẫu tên lửa V-2, đặt tên mới R-1 (tầm bắn 270km, lắp đầu đạn nặng 785kg).

Trong 11 lần bắn thử nghiệm năm 1947-1948, tên lửa R-1 đánh trúng mục tiêu 5 lần, tỉ lệ này được cho có thể chấp nhận được.

Tuy nhiên, R-1 không bao giờ được đón nhận từ tướng lĩnh Quân đội Liên Xô do gặp vấn đề nhiên liệu động cơ (khó sản xuất, khó bảo quản) và độ chính xác kém (đây cũng là vấn đề đeo bám nhiều thế hệ Scud cho tới khi ngừng sản xuất).

Điều này đã thúc đẩy các nhà khoa học Liên Xô phát triển thế hệ tên lửa đạn đạo dùng nhiên liệu mới có độ tin cậy tốt hơn.

Một Scud ít tiếng tăm

Tháng 12/1951, Phòng thiết kế OKB-1 Korolev khởi động chương trình phát triển tên lửa đạn đạo chiến thuật mới sử dụng động cơ nhiên liệu lỏng (phòng thiết kế OKB-2 Isayev sản xuất).

Ngày 18/4/1953, tên lửa đạn đạo tầm ngắn R-11 (Mỹ định danh là SS-1B, NATO gọi là Scud A) được phóng thành công lần đầu tại trường bắn Kasputin Yar.

R-11 có chiều dài 10,7m, đường kính thân 0,88m, khối lượng phóng 4,4 tấn. R-11 trang bị động cơ nhiên liệu lỏng S2.253 (thành phần nhiên liệu gồm axit nitric AK-20F chọn làm chất oxy hóa, nhiên liệu là dầu hỏa T-1, thành phần phóng là TG-02 Tonka – chất này tự bốc cháy khi tiếp xúc với axit nitric). R-11 có tầm bắn tối đa 180km, tải trọng 950kg.

R-11 thiết kế 4 cánh lái Graphite ở loa phụt động cơ điều chỉnh hướng bay. Do hạn chế công nghệ thời kỳ này, R-11 vẫn dùng hệ dẫn đường quán tính lạc hậu, thiếu chính xác, bán kính lệch mục tiêu (CEP) tới 3.000m. Đạn tên lửa R-11 đặt trên khung bệ xe mang phóng 8U227 thiết kế trên khung gầm cơ sở xe bánh xích AT-T.

Nhìn chung, R-11 vẫn bị coi là thiếu tin cậy, hết vấn đề nhiên liệu phóng lại tới độ chính xác tồi tệ. Đầu đạn thuốc nổ mạnh nặng gần 1 tấn của tên lửa chưa “bù đắp” được độ kém chính xác.

Tháng 8/1954, OKB-1 tiếp tục triển khai phát triển biến thể mang đầu đạn hạt nhân R-11M. Với đầu đạn hạt nhân, chỉ số CEP lớn có thể được bù đắp phần nào.

Sở dĩ, từ thiết kế R-1 và R-11, Liên Xô không sử dụng đầu đạn hạt nhân vì chúng quá to và nặng với phương tiện mang phóng.

Từ giữa những năm 1950, vũ khí hạt nhân ở mức hoàn thiện cao hơn, nhẹ hơn, nhỏ hơn nhưng sức công phá mạnh hơn. Vì vậy, việc mang nó vũ khí hạt nhân trên phương tiện mang phóng khả thi hơn.



Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa đạn đạo R-11M trên xe phóng bánh xích 8U28.

Công việc thiết kế nhanh chóng hoàn thành và sản xuất các mẫu thử tại nhà máy No. 385 Zlatmst.

Từ tháng 12/1955 tới đầu 1958, Liên Xô tiến hành 27 cuộc thử R-11M chia làm 3 giai đoạn, trong đó có một lần thử với đầu đạn hạt nhân.

R-11M đạt tầm bắn tối đa 270km với đầu đạn thuốc nổ thông thường hoặc 150km với đầu đạn hạt nhân 50 kiloton. Đạn tên lửa R-11M đặt trên xe phóng 8U218 thiết kế trên khung gầm cơ sở xe pháo tự hành ISU-152.

Ngày 1/4/1958, R-11M chính thức được chấp nhận đưa vào phục vụ trong Quân đội Liên Xô. Trước đó, tháng 11/1957, R-11M vinh dự xuất hiện trong cuộc duyệt binh trên Quảng trường đỏ.

Thời kỳ đầu, R-11/11M chủ yếu biên chế trong Lữ đoàn nằm dưới sự điều hành của Bộ Tổng Tham mưu và không bao giờ được xuất khẩu.

Có thể nói, trong gần 30 năm phát triển, thế hệ R-11/11M chỉ là cái bóng, không đóng vai trò gì. Mọi vinh quang của dòng tên lửa này dồn cho thế hệ sau này là R-17.

Tuy nhiên, với Quân đội Liên Xô, R-11/11M đã đem nền tảng vũ khí trên biển, tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm.

Nền tảng tên lửa phóng từ tàu ngầm

Tham vọng chế tạo tên lửa đạn đạo đặt trên tàu ngầm của Liên Xô bắt đầu từ năm 1947 với dự định phát triển biến thể V-2 phóng từ tàu ngầm nhưng dự án không bao giờ được thực hiện.

Tháng 1/1954, OKB-1 Korolev tái khởi động project Volna phát triển loại tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm. Thay vì nghiên cứu nền tảng mới, OKB-1 lựa chọn R-11M để cải tiến vì kích cỡ của nó phù hợp với không gian chật hẹp trên tàu ngầm.

Một vấn đề khó khăn thực hiện project Volna, đó là phương thức phóng tên lửa từ tàu ngầm. Lý tưởng nhất, R-11M được phóng khi tàu ngầm dưới còn ở dưới mặt nước, như vậy nó đảm bảo tàu không lộ diện trước thiết bị trinh sát trên mặt biển.

Nhưng điều này đặt ra thách thức lớn về công nghệ. Các nhà khoa học vẫn chưa xác định hết được sự tương tác giữa tên lửa với môi trường nước sẽ như thế nào? Liệu tên lửa có bị áp lực nước nghiền nát? Động cơ tên lửa có thể đánh lửa dưới nước, nước có tràn vào trong động cơ?….


Tin Quân Sự - http://nghiadx.blogspot.com
Hình họa mô phỏng phóng tên lửa đạn đạo R-11FM phóng từ tàu ngầm project 611AV lớp Zulu V.

Cuối cùng, các nhà khoa học Liên Xô chọn giải phóng an toàn hơn, tên lửa đạn đạo được phóng khi tàu nổi. Cục thiết kế TsKB-34 phụ trách phát triển hệ thống phóng SM-49 để bắn tên lửa đạn đạo R-11FM (biến thể R-11M).

Về nền tảng bệ phóng, TsKB-16 lựa chọn cải tiến tàu ngầm tấn công điện – diesel project 611 lớp Zulu mang hệ thống SM-49. Ngày 16/9/1955, trên biển Trắng, tàu ngầm project 611 bắn thử thành công tên lửa đạn đạo chiến thuật R-11FM. Tiếp đó, 8 cuộc phóng khác lần lượt được thực hiện.

Dù các cuộc phóng thành công đầy hứa hẹn nhưng nhìn chung R-11FM mắc nhiều khiếm khuyết. Ví dụ, nhiên liệu động cơ thuộc là loại lỏng, chỉ được bảo quản trong vòng 3 tháng. Đồng thời, nhiên liệu lỏng không đáng tin cậy, dễ cháy nổ.

Bên cạnh đó, biến thể đất liền R-11M vốn dĩ có độ chính xác rất kém, R-11FM lại càng tồi tệ, bán kính lệch mục tiêu CEP tăng hơn gấp đôi, tới 7.000m. Cuối cùng, việc triển khai phóng R-11FM mất rất nhiều thời gian.

Hải quân Liên Xô hoàn toàn không muốn chấp nhận một loại vũ khí thiếu tin cậy, kém chính xác trong biên chế. Nhưng, lãnh đạo Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Quốc phòng quyết tâm ủng hộ Project Volna. Cuối cùng, Hải quân phải chấp nhận đưa vào R-11FM trang bị.

Có tất cả 7 tàu ngầm project 611AV Zulu V được trang bị tên lửa R-11FM biên chế vào Hạm đội biển Bắc và Thái Bình Dương. Trong thời gian triển khai, có 77 tên lửa đạn đạo R-11FM được phóng trên biển, tỉ lệ thành công đạt 86%.

Dù không được đánh giá cao nhưng, R-11FM đã đặt nền móng cho quá trình phát triển tên lửa đạn đạo trên tàu ngầm sau này của Hải quân Liên Xô và Nga ngày nay.

Tên gọi các loại vũ khí của Liên Xô luôn làm đau đầu người đọc, ngoài định danh do nhà sản xuất đặt, nó còn có tên định danh của Mỹ và NATO. Điều đó, làm cho các loại vũ khí của Liên Xô có quá nhiều tên gọi, tên lửa đạn đạo này là một trong những loại vũ khí như thế.

Đối với R-11, người Nga định danh cho nó là R-11 Zemlya, Mỹ gọi riêng với tên SS-1B (SS-1A dành để chỉ R-1 và R-2) còn NATO gọi là Scud-A. Tương tự, thế hệ sau R-17 là cách người Nga gọi, Mỹ gọi riêng là SS-1C và NATO gọi là Scud-B.

Dù có cái tên chính thức, nhưng có lẽ ngoài Nga thì nhiều quốc gia trên thế giới hầu hết quen gọi loại tên lửa này là Scud – một cách đơn giản nhất.

>> Việt Nam đã cải tiến tên lửa X-35 ?

Chiến tranh thế giới thứ 3
Việt Nam sản xuất được cả một con tàu chiến hiện đại như TT400TP thì việc sản xuất quả tên lửa X-35 có gì là to tát? Không phải vậy! Tuy nó nhỏ thật, nhưng ảnh hưởng của nó mang tầm chiến lược. Tuy nó nhỏ, nhưng khi có nó, bắt buộc kế hoạch tác chiến của đối phương phải thay đổi.



http://nghiadx.blogspot.com
Tên lửa chống tàu X- 35 trên bờ.

Điều đầu tiên, đương nhiên Việt Nam qua đó sẽ tự chủ được số lượng tên lửa. Khi có đủ tên lửa, Việt Nam chủ động triển khai thế trận phòng thủ phù hợp theo nhu cầu của chiến thuật.

>> Tên lửa Uran (Kh-35) : Cơn ác mộng của tàu chiến
>> Tìm hiểu khinh hạm lớp Gepard

Tất cả các hải đảo tiền tiêu là những bệ phóng tuyệt vời, ít tốn kém nhất và với đường lối, nghệ thuật chiến tranh nhân dân thì tên lửa diệt hạm X-35 thực sự là vũ khí tác chiến phi đối xứng hiệu quả.

Tuy nhiên, do Nga chế tạo ra tên lửa X-35 là để đáp ứng chiến thuật tác chiến nào đó trong nghệ thuật quân sự Nga nên khi xuất khẩu thì tất nhiên, sẽ tồn tại một số vấn đề chưa đáp ứng với yêu cầu chiến thuật của Việt Nam. Chẳng hạn như:

- Tầm bắn của tên lửa chưa đủ xa, do đó buộc các phương tiện bay mang tên lửa phải đi vào vùng hoạt động của hệ thống phòng không tầm xa của đối phương.

- Tốc độ bay của tên lửa tương đối thấp, do đó khả năng bị hỏa lực phòng không của tàu đối phương đánh chặn là tương đối cao.

- Hệ thống điều khiển tên lửa chưa cho phép tên lửa có khả năng tấn công các mục tiêu trên bờ biển và vào sâu trong đất liền.

Nhưng tên lửa diệt hạm X-35 có một đặc điểm là nó cho phép cải tiến nâng cấp không giới hạn, như có thể sử dụng nhiên liệu có hiệu năng cháy tốt hơn sẽ làm tăng tầm bắn của tên lửa…

Đây là điều mà khi hợp tác sản xuất với Nga, Việt Nam không thể không tính đến và Việt Nam cũng đã có thừa kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

Nếu những điều này khi sản xuất mà được giải quyết thì chắc chắn khả năng phòng thủ hướng biển từ xa được nâng cao.

Nội lực phòng thủ của đảo khi có sự xuất hiện của X-35 được tăng lên gấp bội. Địch không thể tiếp cận gần hơn khi tấn công trong tầm tiêu diệt của X-35, cho nên sẽ kéo theo một loạt điều bất lợi khi tác chiến.

Sự lợi hại của X-35 không chỉ ở phòng thủ mà đây là một loại vũ khí phi đối xứng phi tiêu chuẩn, vô cùng nguy hiểm, đặc biệt khi nó trong tay Việt Nam với hình thức tác chiến phi đối xứng kiểu Việt Nam.

Tác chiến phi đối xứng (TCPĐX) là sử dụng cách đánh bất ngờ, nhằm tiêu hao lực lượng sinh lực của đối phương.

Một trong những yêu cầu quan trọng và có ý nghĩa quyết định là xương sống cho TCPĐX là các hệ thống vũ khí phục vụ cho TCPĐX phải đảm bảo được các yêu cầu: Hỏa lực mạnh, chi phí thấp, dễ sử dụng, tính linh hoạt cao trong bố trí tác chiến, trong vận chuyển và dễ dàng để ngụy trang nhằm tạo ra hiệu quả tác chiến tối ưu.

TCPĐX, thuật ngữ này mới xuất hiện gần đây trong cuộc đối đầu bởi lực lượng khủng bố, phiến quân với lực lượng Mỹ và NATO. Về quy mô, tổ chức nó không tầm cỡ như chiến tranh du kích mặc dù nó có lối đánh giống với lối đánh du kích.

Với Việt Nam thì TCPĐX là một thành tố trong nội hàm là chiến tranh du kích mà thôi. Bởi vậy, thay vì hình thức tác chiến phi đối xứng tồn tại biệt lập, đơn lẻ trong một cơ quan tổ chức chiến tranh lỏng lẻo thì ở Việt Nam nó được tồn tại trong một cuộc chiến tranh nhân dân có tổ chức cao (cấp Nhà nước) với nhiều hình thức tác chiến kể cả hiện đại, có sự hợp đồng tác chiến chặt chẽ với các lực lượng trên toàn chiến trường.

http://nghiadx.blogspot.com

Tên lửa diệt hạm X- 35 trong thùng container 20'. Phương án tác chiến phi đối xứng trong chiến tranh du kích hiện đại trên biển là bãi lầy nguy hiểm cho bất cứ con voi xâm lược nào nếu muốn sa lầy.

Vì vậy, hậu quả mà tác chiến phi đối xứng gây ra cho đối phương cũng mang tầm vóc lớn hơn. Nó không chỉ tiêu hao sinh lực địch mà còn là một trong nhiều đòn tấn công góp phần làm thất bại một chiến dịch, một chiến lược tiến đến một cuộc chiến tranh do địch gây ra.

Với chúng ta, hình thức tác chiến phi đối xứng này được phát triển lên một tầm cao mới theo bản sắc nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đây là một thách thức nguy hiểm nữa mà bất kỳ quốc gia nào lăm le tấn công xâm lược Việt Nam phải tính tới.

Không còn nghi ngờ gì nữa, tên lửa diệt hạm X-35 là loại vũ khí mang đầy đủ, trọn vẹn những tiêu chí mà hình thức tác chiến phi đối xứng đặt ra.

Rõ ràng, Việt Nam có thể sản xuất ra hàng trăm, thậm chí hàng ngàn quả tên lửa X-35 nhưng khó có thể sản xuất được vài chiếc tàu khu trục hạm dạng Gepard 3.9, trong khi một vài quả X-35 trúng mục tiêu thì khu trục hạm hiện đại cỡ như Gepard 3.9 hay tương đương cũng sẽ phải yên nghỉ dưới đáy đại dương. Vậy thì quan tâm đến điều này chẳng có gì là ngạc nhiên.

Với loại tên lửa diệt hạm X-35 mà Việt Nam tự chủ được số lượng, cải tiến nâng cao; với các loại vũ khí mà Việt Nam đang mua sắm chuẩn bị khác nữa, liệu Việt Nam có biến hình thức tác chiến phi đối xứng thành một bí kíp kinh điển cho các nước nghèo chống xâm lược hay không?.

Qua 4 cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc tiến hành liên tục ròng rã hơn 30 năm của Việt Nam với những thế lực hùng mạnh nhất trên thế giới, chắc lẽ cũng đã có nửa câu trả lời.

>> 'Rồng lửa' giữ trời Việt Nam


Được mệnh danh là “rồng lửa”, tên lửa S-300PMU1 đang là loại vũ khí tối tân nhất canh giữ bầu trời quê hương. Những chú "rồng lửa" ấy hiện do nhiều sĩ quan Việt Nam còn rất trẻ điều khiển.


10h, đoàn tên lửa phòng không 64 (Đoàn phòng không Hà Nội) nhận lệnh báo động, ngay lập tức toàn đoàn chuyển sang cấp 1 - sẵn sàng chiến đấu.

Ở tất cả vị trí chiến đấu, các hệ thống ăngten, bệ phóng tên lửa tự hành từ từ dựng lên trời đầy kiêu hãnh, trong đó có tổ hợp tên lửa phòng không S-300PMU1. Chỉ chưa đầy năm phút sau khi nhận lệnh, toàn bộ tổ hợp tên lửa phòng không S-300PMU1 đã triển khai xong và sẵn sàng phóng tên lửa đến mục tiêu.

Không bỏ sót mục tiêu

Tại sở chỉ huy trên không, radar phát hiện mọi độ cao 96L6E nhanh chóng phát hiện nhiều tốp mục tiêu đang bay vào khu vực bảo vệ của đoàn. Chỉ huy bắn - đoàn trưởng - thiếu tá Nguyễn Quốc Văn yêu cầu kíp đài radar khẩn trương thiết lập quỹ đạo đường bay, xác định chính xác số lượng kiểu loại, các tham số về phương vị, cự ly, độ cao và vận tốc của mục tiêu để chỉ thị đài radar chiếu xạ mục tiêu và điều khiển tên lửa đánh đúng đối tượng.

Đài radar chiếu xạ mục tiêu và điều khiển tên lửa 30N6E được ví là “siêu mắt thần”. Bởi đây là đài radar đa kênh - đa chức năng, sử dụng hệ thống ăngten mạng pha xung dopler hiện đại có khả năng phát hiện được các loại mục tiêu chế tạo theo công nghệ “tàng hình” (kể cả mục tiêu có diện tích phản xạ hiệu dụng tới 0,02m2), khả năng chống nhiễu tốt với tất cả các dạng nhiễu tiêu cực và nhiễu tích cực. Các bộ phận trong kíp chiến đấu căng mắt nhìn vào các màn hình và liên tục thao tác. Hàng chục màn hình lớn nhỏ hiển thị liên tục những tham số về tốc độ di chuyển, hướng đi của mục tiêu; về tình trạng sẵn sàng bắn hỏa lực của hệ thống vũ khí khí tài...


http://nghiadx.blogspot.com
Từ trái qua: xe bệ phóng tên lửa tự hành và xe gắp ống phóng bảo quản đạn - Ảnh: Nguyễn Quốc Văn


Đến lúc này, tôi mới cảm nhận chân thực và đầy đủ hơn câu nói của đoàn trưởng Nguyễn Quốc Văn trước đó: “Khi sử dụng S-300PMU1, sĩ quan chỉ huy tác chiến không cầm súng như bộ binh, không lái máy bay như phi công. Chúng tôi chiến đấu qua hệ thống điều khiển, màn hình, các tín hiệu...”.

Cùng lúc đó, ở sở chỉ huy mặt đất, kíp tiêu đồ quản lý vùng trời đang tập trung liên lạc bằng các tín hiệu morse dồn dập đổ về. Trước mặt họ là hai bảng mạng tình báo khu vực và tình báo hỏa lực rất lớn. Cũng thời điểm này trong sở chỉ huy trên không, các sĩ quan liên tục thao tác, báo cáo, nhận lệnh... trong khi nhân viên tiêu đồ đang tập trung đi đường bay theo thông báo của mạng tình báo radar khu vực. Các mục tiêu trên không nhanh chóng được phát hiện, bắt và bám sát từng milimet.

“Mục tiêu đã được bám sát và xác định được đầy đủ các phần tử mục tiêu” - sĩ quan bắt và bám sát mục tiêu báo cáo. “Đoàn quyết tâm tiêu diệt mục tiêu ném bom chiến lược bằng hai tên lửa” - chỉ huy bắn ra lệnh tiêu diệt mục tiêu.

Sau khi xác định mục tiêu đã vào vùng phóng, sĩ quan phóng Nguyễn Thanh Nguyện nhấn nút điều khiển phóng hỏa lực. Hai quả tên lửa rời bệ phóng lao đi với vận tốc 1.900m/giây, tiêu diệt ngay mục tiêu trên không.

Đó là một trong những tình huống tác chiến trên không giả định mà các cán bộ, chiến sĩ của đoàn tên lửa phòng không 64 thường xuyên huấn luyện.

Vài nét về sư đoàn phòng không 361

Đoàn tên lửa phòng không 64 là một trong 13 đơn vị trực thuộc sư đoàn phòng không 361 (Đoàn phòng không Hà Nội). Sư đoàn 361 thành lập ngày 19-5-1965 với nhiệm vụ bảo vệ bầu trời Hà Nội.

Trong chiến dịch 12 ngày đêm (tháng 12/1972), sư đoàn là lực lượng phòng không chủ lực bảo vệ Hà Nội, bắn rơi 29 máy bay (trong đó có 25 máy bay B52)! Ngày 15/1/1976, sư đoàn đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


“Rồng lửa” hiện đại

Đoàn trưởng Nguyễn Quốc Văn cho biết: “Khi được tiếp nhận và sử dụng S-300PMU1, chúng tôi coi đây là vinh dự lớn và càng nhận thức rõ trách nhiệm sâu sắc của từng người đối với loại khí tài rất hiện đại mà đất nước đã tin tưởng giao cho mình”.

S-300PMU1 có khả năng tiêu diệt tất cả phương tiện tiến công hỏa lực đường không của địch trong hiện tại và cả tương lai, các loại máy bay chiến lược, tên lửa có cánh và tên lửa đạn đạo trong tất cả khu vực hoạt động rộng lớn tới 1.600km2 (trong khi hệ thống tên lửa phòng không Patriot chỉ 300km2).

Với xác suất tiêu diệt mục tiêu rất cao, S-300PMU1 thật sự là ác mộng với đối phương khi tác chiến trên không bởi hỏa lực của nó được coi là mạnh nhất trong hệ thống tên lửa phòng không hiện đại thế giới. Tầm quan sát, phát hiện mục tiêu của tổ hợp này lên đến 300km và tiêu diệt trong cự ly 150km.

Cùng một lúc, S-300PMU1 có khả năng bám sát và tiêu diệt sáu mục tiêu, điều khiển đến 12 tên lửa và quản lý tới 100 mục tiêu. S-300PMU1 có khả năng bắn hạ mục tiêu ở độ cao lên đến 27.000m và thậm chí ở độ cao chỉ 10m. Ngay cả những mục tiêu vận tốc lên đến 10.000km/giờ cũng dễ dàng hóa thành con mồi dưới hỏa lực của S-300MPU1.

Thời gian phản ứng của S-300PMU1 được coi là số 1 hiện nay. Khi đang hành quân, tổ hợp cơ động này có khả năng chuyển sang chế độ sẵn sàng chiến đấu chỉ trong thời gian nhỏ hơn 5 phút (con số này với hệ thống tên lửa phòng không tầm xa đa năng Patriot của Mỹ là 30 phút). Và chỉ mất 40 giây để S-300PMU1 chuyển sang chế độ chiến đấu từ chế độ trực ban.

Toàn bộ hệ thống của đài radar chiếu xạ mục tiêu và điều khiển tên lửa đa kênh, đa chức năng 30N6E được đặt trên xe đặc chủng có thể leo dốc 30O, vượt hào 2,5m, lội nước 1,3m, quãng đường hành quân liên tục 500km.

Đặc biệt khi xe hỏng một bánh cho phép treo bánh và tiếp tục hành quân tới vị trí bảo dưỡng đến 40km. radar phát hiện mọi độ cao 96L6E thông minh có các hệ thống thăng bằng tự động. Xe bệ phóng tự hành có khả năng bảo dưỡng đạn tên lửa tại chỗ, có thể mang đạn đi khi hành quân và thời gian di dời chỉ trong 5 phút (với các loại hệ thống phòng không cũ phải mất 60-90 phút!).

Mỗi xe bệ phóng tự hành gồm một chỉ huy và một lái xe kiêm trắc thủ. Thế nên ngay cả “tài xế” của đoàn tên lửa phòng không 64 cũng được đào tạo bài bản ở Nga và tham gia một số khóa huấn luyện khi về nước.



http://nghiadx.blogspot.com
Bên trong phòng điều khiển của sở chỉ huy trên không, tức đài radar chiếu xạ mục tiêu và điều khiển tên lửa 30N6E - Ảnh: Nguyễn Quốc Văn


Sức trẻ điều khiển “rồng lửa”

Đến đoàn tên lửa phòng không 64 lần đầu tiên sẽ rất ngạc nhiên khi luôn bắt gặp những gương mặt rất trẻ từ chỉ huy đến sĩ quan. Họ - những con người làm chủ được một trong những hệ thống tên lửa phòng không hiện đại, đôi mắt luôn bừng lên sự tự tin, vững chãi khi trao đổi với các chuyên gia người Nga.

Dù mới chỉ mang quân hàm thiếu tá, anh Nguyễn Quốc Văn đã được tin tưởng giao trọng trách đoàn trưởng. Năm 2009, chàng sĩ quan người Hà Nội có gương mặt rất thư sinh này khi đang là tham mưu trưởng của đoàn đã được cấp trên cho đi đào tạo lớp chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật - chiến dịch tại Học viện Phòng không - không quân. Tháng 9-2011, khi về đoàn tên lửa phòng không 64, Quốc Văn đã bắt đầu chỉ huy buổi diễn tập bắn đạn thật có sự tham gia của S-300PMU1.

Phó đoàn trưởng - tham mưu trưởng Nguyễn Trần Luyện cũng mang quân hàm thiếu tá và 35 tuổi. Đó là chưa kể đội ngũ sĩ quan rất nhiều người thuộc thế hệ 8X, người trẻ nhất mới 24 tuổi. Còn chiến sĩ đa số thuộc thế hệ 9X!

Từ tháng 7/2005, đoàn tên lửa 64 bắt đầu tiếp nhận toàn bộ vũ khí khí tài của tổ hợp tên lửa phòng không S-300PMU1 cơ động từ cảng Hải Phòng về. Sau hai lớp tập huấn do chuyên gia người Nga trực tiếp giảng dạy trong 120 ngày, các cán bộ, chiến sĩ của đoàn đã nắm vững tất cả thao tác sử dụng tổ hợp vũ khí tên lửa phòng không hiện đại bậc nhất thế giới hiện nay trong thực hành chuẩn bị chiến đấu và cả bảo dưỡng kỹ thuật.

Tham mưu trưởng Nguyễn Trần Luyện cho biết: “Từ tháng 10/2006, chúng tôi đã có thể tự huấn luyện chuyển loại toàn bộ cho sĩ quan trẻ”.

“Không chỉ riêng tôi mà tất cả mọi người đều cảm thấy rất vinh dự khi được làm việc với loại khí tài hiện đại nhất quân chủng và là một trong những tổ hợp tên lửa phòng không hiện đại thế giới” - sĩ quan phóng Nguyễn Thanh Nguyện 26 tuổi chia sẻ.

Tất cả đều đạt điểm giỏi

Đoàn tên lửa phòng không 64 ra đời ngày 20/9/2005 nhưng trước đó, từ tháng 10-2004 đã diễn ra cuộc tuyển chọn trong toàn sư đoàn phòng không 361 để chọn ra 46 người chuẩn bị tham gia học chuyển loại tên lửa S-300PMU1. Sau hai tháng huấn luyện chuyển loại ở Kim Bài (Hà Nội), tháng 1-2005 họ lên đường sang Nga tham gia một khóa học chuyển loại vũ khí khí tài mới kéo dài sáu tháng.

Thiếu tá Lương Đình Thi - một trong những người từng được cử sang Nga học chuyển loại - cho biết: “Ngoài thời gian tám giờ học một ngày, chúng tôi luôn tận dụng hỏi chuyên gia ngay sau giờ học. Dù chỉ tranh thủ được khoảng 10 phút vì chuyên gia rất bận nhưng đó thật sự là những giây phút rất đáng quý. Tối về anh em còn thức đêm đọc nghiên cứu tài liệu, xem lại những phần chưa hiểu trao đổi với nhau...”.

Kết thúc khóa học, 46 học viên đã tham gia diễn tập bắn đạn thật tại trường bắn Ka-pútrin-iar của Bộ Quốc phòng Nga. Những cán bộ, sĩ quan trẻ Việt Nam đã làm các thầy người Nga thán phục với kết quả diệt mục tiêu, đạt điểm giỏi và đảm bảo an toàn tuyệt đối.

>> Tên lửa đạn đạo tầm gần Scud-B của Việt Nam


Scud là một serie các tên lửa đạn đạo chiến thuật được Liên bang Xô viết triển khai trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và xuất khẩu rộng rãi tới nhiều nước khác trên thế giới. Thuật ngữ này xuất phát từ tên hiệu NATO SS-1 Scud vốn được các cơ quan tình báo phương Tây gán cho loại tên lửa này. Những tên tiếng Nga của nó là R-11 (phiên bản đầu tiên) và R-300 Elbrus (những phiên bản phát triển sau này). Cái tên Scud đã được các phương tiện truyền thông và nhiều thực thể khác dùng để chỉ không chỉ những tên lửa này mà cả nhiều loại tên lửa khác được phát triển tại các quốc gia khác dựa trên thiết kế của người Sô viết. Thỉnh thoảng trên các phương tiện truyền thông đại chúng Hoa Kỳ, Scud được dùng để gọi bất kỳ một tên lửa đạn đạo của bất kỳ một quốc gia nào không phải phương Tây.


Phát triển thời Sô Viết

Thuật ngữ Scud được sử dụng lần đầu tiên trong tên hiệu NATO SS-1b Scud-A, để chỉ loại tên lửa đạn đạo R-11. Tên lửa R-1 trước đó được NATO đặt tên hiệu SS-1 Scunner, nhưng là một bản thiết kế khác hẳn, hầu như copy trực tiếp từ loại V-2 của Đức. R-11 cũng sử dụng kỹ thuật học được từ V-2, nhưng có một thiết kế mới, nhỏ hơn và có hình dáng khác biệt so với V-2 và R-1. R-11 được Makeyev OKB thiết kế và bắt đầu đưa vào sử dụng năm 1957. Cải tiến mang tính cách mạng nhất của R-11 là động cơ, do A.M. Isaev thiết kế. Đơn giản hơn rất nhiều so với thiết kế nhiều buồng của V-2, và sử dụng một van đổi hướng chống dao động để ngăn chặn chugging, nó là nguyên mẫu đầu tiên của những động cơ lớn hơn được sử dụng trong các tên lửa vũ trụ Nga sau này.






http://nghiadx.blogspot.com
Cấu tạo Scud-B


Các biến thể phát triển thêm là R-300 Elbrus / SS-1c Scud-B năm 1961 và SS-1d Scud-C băn 1965, cả hai đều có thể mang hoặc đầu nổ quy ước có sức nổ cao, hoặc một đầu đạn hạt nhân 5 tới 80 kiloton, hay một đầu đạn hóa học (VX nén). Biến thể SS-1e Scud-D được phát triển trong thập niên 1980 có thể mang đầu đạn quy ước có sức nổ mạnh, một đầu đạn fuel-air, 40 runway-penetrator sub-munition, hay 100 × 5 kg quả bom chống cá nhân nhỏ.

Tất cả các mẫu đều dài 11.25 mét (ngoại trừ Scud-A ngắn hơn 1 mét) và có đường kính 0.88 mét. Chúng được đẩy bằng một động cơ duy nhất sử dụng nhiên liệu kerosene và nitric acid với Scud-A, hay UDMH và RFNA (tiếng Nga SG-02 Tonka 250) với các mẫu khác.

Tác chiến

Tên lửa Scud (và cả các biến thể của nó) là một trong số ít các tên lửa đạn đạo đã được sử dụng trong chiến tranh thực tế, chỉ đứng thứ hai sau loại V2 về số lượng sử dụng (SS-21 là loại tên lửa đạn đạo duy nhất khác được sử dụng "trong chiến tranh"). Libya đã trả đũa các vụ tấn công không quân của Hoa Kỳ (Chiến dịch El Dorado Canyon) năm 1986 bằng cách bắn nhiều tên lửa Scud vào một trạm đồn trú bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ tại hòn đảo Lampedusa thuộc Italia lân cận. Các tên lửa Scud cũng đã được sử dụng trong nhiều cuộc xung đột gồm với bên sử dụng gồm cả Liên bang Xô viết và các lực lượng cộng sản Afghanistan tại nước này, Iran và Iraq chống lại nhau trong cái gọi là "Cuộc chiến tranh của các thành phố" trong thời Chiến tranh Iran-Iraq. Tên lửa Scud cũng được người Iraq sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh chống lại các mục tiêu của Israel và liên quân tại Ả rập Saudi.

Hơn mười tên lửa Scuds đã được bắn từ Afghanistan vào các mục tiêu tại Pakistan năm 1988. Một số lượng nhỏ tên lửa Scud cũng được sử dụng trong cuộc nội chiến năm 1994 tại Yemen và bởi các lực lượng Nga tại Chechnya năm 1996 những năm sau đó.

http://nghiadx.blogspot.com
Các quốc gia sở hữu tên lửa Scud-B


Các nước sở hữu hoặc từng sở hữu tên lửa Scud-B gồm: Afghanistan, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Bulgaria, Georgia, Kazakhstan, Iran, Iraq, Libya, Ba Lan, Slovakia, Turkmenistan, Ukraina, Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Việt Nam, Yemen và Nam Tư. Cộng hòa Dân chủ Congo và Ai Cập đã đặt mua thêm các tên lửa Scud-C thêm vào số Scud-B họ đã có. Syria đã muốn đặt hàng loại Scud-D, và tên lửa Al Hussein của Iraq cũng có tầm bắn tương tự Scud-D. Bắc Triều Tiên cũng có các tên lửa Scud sau các cuộc thử nghiệm tên lửa năm 2006.

Số lượng Scud của VN khoảng 50 quả, mua của Bắc Triều Tiên cùng 2 em tàu ngầm "Ông già gân" giá 100 mil USD. Nhược điểm là độ chính xác kém (khoảng 500m) và Vẹt nhà mình đã cải tiến tầm bắn lên được 500km

Thông số kỹ thuật:

Xuất xứ: Nga
Loại: SRBM
Chiều dài: 11.25 m
Đường kính: 0.88 m
Tồng trọng lượng: 5900 kg
Lượng chất nổ: Một đầu nổ, 985 kg
Đầu nổ: Nuclear 5-70 kT, HE, chemical
Động cơ đẩy: Single-stage liquid
Tầm hoạt động: 300 km
Sản xuất: 1962

Dưới đây là một số hình ảnh về tên lửa Scud-B của Việt Nam được đăng trên báo và các trang mạng Trung Quốc :

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com

http://nghiadx.blogspot.com